Thiết kế và chế tạo HMS_Collingwood_(1908)

Thiết kế

So với lớp Bellerophon dẫn trước, trọng lượng choán nước của Collingwood tăng thêm 650 tấn Anh (660 t), chiều dài tăng thêm 10 ft (3,0 m) và mạn thuyền rộng hơn 18 in (0,46 m). Một dàn pháo chính mạnh hơn được trang bị, trong khi vỏ giáp bảo vệ chỉ được cải thiện tối thiểu; trữ lượng nhiên liệu mang theo và tốc độ tối đa thiết kế đều được cải thiện.[1] Dáng vẽ của nó có thể được phân biệt so với lớp dẫn trước nhờ những khác biệt nhỏ trên cấu trúc cầu tàu và cột ăn-ten trước, bố trí lại cột ăn-ten chính từ phía trước vị trí chỉ huy phía sau ra phía sau, và bởi bề rộng các ống khói không đồng nhất: ống khói trước hẹp hơn ống khói sau.[2] Collingwood có một dãi băng sơn màu trắng chung quanh ống khói sau.[3]

Vũ khí

Dàn vũ khí chính của nó bao gồm mười khẩu pháo BL 12 in (300 mm)/50 caliber Mk XI trên năm tháp pháo nòng đôi. Sự gia tăng chiều dài nòng pháo từ cỡ 45-calibre sang cỡ 50-calibre đã làm tăng lưu tốc đầu đạn từ 2.850 ft/s (870 m/s) lên 3.101 ft/s (945 m/s) với cùng một trọng lượng đạn pháo xuyên thép. Điều này đã giúp tăng cường khả năng xuyên thép khoảng nữa inch ở khoảng cách 3.000 yd (2.700 m), nhưng lưu tốc đầu đạn cao hơn lại khiến đạn pháo kém chính xác; các loạt đạn pháo bị phân tán trên một khu vực rộng hơn so với những con tàu trước đó.[4]

Sự bố trí các tháp pháo giống như các thiết giáp hạm dreadnought Anh trước đây. Tháp pháo "A" đặt ở sàn trước với góc bắn không bị giới hạn qua mũi tàu khoảng 270°. Các tháp pháo "P" và "Q" được bố trí mỗi bên mạn tàu trên sàn chính giữa các ống khói, chúng có góc bắn danh định 180°, từ thẳng ra phía trước đến thẳng ra phía sau. Vì được đặt song song với nhau, chúng không có khả năng bắn chéo qua mạn bên kia; và trong thực hành việc khai hỏa quá sát theo trục dọc con tàu sẽ gây những hư hại không thể chấp nhận được cho cấu trúc thượng tầng. Tháp pháo "X" được đặt giữa ống khói sau và cấu trúc thượng tầng phía sau, ngang sàn chính; nó có góc bắn khoảng 110° qua cả hai bên mạn tàu, nhưng không thể bắn thẳng ra phía trước và phía sau. Tháp pháo "Y" được đặt ở sàn sau ngang mức sàn chính và có góc bắn không bị giới hạn qua đuôi tàu khoảng 300°.[5]

Dàn pháo hạng hai, dùng để tự vệ chống các tàu phóng lôi, bao gồm mười tám khẩu pháo QF 4 in (100 mm) Mk II. Một cặp pháo này trên bệ không có lá chắn được bố trí trên nóc các tháp pháo "A", "P", "Q" và "X", và mười khẩu còn lại bố trí trên những tháp pháo nòng đơn ngang mức sàn trước trên cấu trúc thượng tầng.[6] Những khẩu trên tháp pháo "A" được tháo dỡ vào năm 1911.[6] Đến năm 1917, khi có nhu cầu trang bị gấp cho tàu buôn sự tự vệ cần thiết chống lại tàu ngầm Đức, một số các khẩu pháo kiểu này được tháo dỡ khỏi các tàu chiến chủ lực. Mọi khẩu pháo được tháo dỡ khỏi nóc các tháp pháo, nhưng một số được tái bố trí ở vị trí mới trên cấu trúc thượng tầng phía trước và trên bệ ở ống khói sau. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, Collingwood còn tổng cộng mười ba khẩu pháo loại này, bao gồm một khẩu phòng không đặt giữa các ống khói.[7]

Một khẩu pháo phòng không 12-pounder 3 in (76 mm) cũng được bố trí cùng với bốn khẩu pháo chào 3-pounder. Collingwood còn có ba ống phóng ngư lôi 18 in (460 mm) ngầm, gồm một ống mỗi bên mạn và một ống phía đuôi tàu.[8]

Động lực

Collingwood được cung cấp động lực bởi bốn turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp đến bốn trục chân vịt. Hơi nước được cung cấp từ 18 nồi nơi Yarrow ống lớn với áp suất hoạt động 235 psi (1.620 kPa), cho phép có được công suất tối đa 24.500 shp (18.300 kW) và một tốc độ thiết kế 21 kn (39 km/h).[5] Trữ lượng nhiên liệu mang theo thông thường là 900 tấn Anh (910 t) than, nhưng có thể mang đến tối đa 2.700 tấn Anh (2.700 t) cùng 850 tấn Anh (860 t) dầu, cho phép một tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h) là 4.690 nmi (8.690 km) khi chỉ sử dụng than, hoặc 6.900 nmi (12.800 km) khi phun dầu vào than; ở tốc độ 18,7 kn (34,6 km/h), tầm xa hoạt động là 4.250 nmi (7.870 km).[2]

Vỏ giáp

Đai giáp chính ở ngang mực nước dày 10 in (250 mm), kéo dài từ một điểm ngang mép trước của bệ tháp pháo "A" cho đến cuối tháp pháo "Y". Mép bên dưới được mở rộng ngang mớn nước thông thường đến 4,9 ft (1,5 m) bên dưới mực nước.[8] Bên trên sàn chính với cùng chiều dài là một đai giáp trên dày 8 in (200 mm) đạt đến chiều cao 8,6 ft (2,6 m) bên trên mớn nước thông thường. Phía trước bệ tháp pháo "A", đai giáp chính được kéo dài với độ dày 7 in (180 mm) cho đến khoảng một phần ba khoảng cách đến mũi tàu; từ điểm này và giữa điểm cuối của đai giáp đến đuôi tàu, mực nước chỉ được bảo vệ bởi lớp giáp dày 2 in (51 mm).

Một vách ngăn ngang dày 5 in (130 mm) cắt ngang hai mạn phần trước con tàu tại điểm kết thúc phần đai giáp dày 7 inch; nó mở rộng từ ngang mức sàn dưới cho đến sàn chính. Vách ngăn phía sau cắt ngang con tàu tại cuối phần đai giáp chính dày 10 inch; nó cũng mở rộng từ ngang mức sàn dưới cho đến sàn chính và dày 8 in (200 mm).

Vỏ giáp của sàn tàu thay đổi theo một cấu trúc phức tạp, dựa trên sự hiện diện hay vắng mặt của các cấu trúc bên trên, và độ quan trọng tương đối của những thành phần mà nó bảo vệ. Phần được bảo vệ tối đa bao gồm hầm đạn và khoang động cơ. Kể từ trên xuống, vỏ giáp của sàn chính dày 0,75–1,5 in (19–38 mm); sàn giữa dày 1,75 in (44 mm); và sàn dưới dày 1,5–3 in (38–76 mm). Các mặt tháp pháo có vỏ giáp dày 11 in (280 mm), trong khi bệ tháp pháo dày 5–9 in (130–230 mm), mỏng hơn ở những nơi được bảo vệ bởi các cấu trúc lân cận. Tháp chỉ huy có vỏ giáp dày 8–11 in (200–280 mm), một lần nữa thay đổi dựa trên mức độ được bảo vệ bởi các cấu trúc lân cận.[9]

Chế tạo

Collingwood được đặt hàng vào ngày 26 tháng 10 năm 1907. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu Devonport vào ngày 3 tháng 2 năm 1908; hạ thủy vào ngày 7 tháng 11 năm 1908; và hoàn tất vào tháng 5 năm 1910.[8] Vào ngày 3 tháng 5 năm 1910, nó được nhập biên chế tại Portsmouth vào Đội 1 của Hạm đội Nhà.